– Mẫu mực của Phật tử Việt Nam thời Trần là vị Bồ Tát trang nghiêm, mẫu mực của người trung thành và hiếu thảo.
Bồ Tát tất nhiên là một phạm trù tư tưởng chính của Phật giáo, trong khi nhân cách là một phạm trù của hệ tư tưởng Nho giáo. Nhưng chỉ cần đọc các tác phẩm Nho giáo về đàn ông, chúng ta có thể thấy được những đóng góp mới của Trần Nhân Tông.
Hãy giữ gìn giới luật, trau dồi giới luật,
Bên trong và bên ngoài nên trang nghiêm Bồ Tát
Hãy thờ chúa, thờ cha,
Đi Trở thành người chồng chung thủy và hiếu thảo.
(Đại hội VI, Sống ở Trần Lạc Đạo Phú)
Mẫu mực của Phật tử Việt Nam thời Trần là một vị Bồ Tát trang nghiêm, một người trung thành và hiếu thảo. Bồ Tát tất nhiên là một phạm trù tư tưởng chính của Phật giáo, trong khi nhân cách là một phạm trù của hệ tư tưởng Nho giáo. Nhưng chỉ cần đọc các tác phẩm Nho giáo về đàn ông, chúng ta có thể thấy được những đóng góp mới của Trần Nhân Tông.
Trong Văn Văn của Mạnh Tử, chúng ta được dạy rất rõ ràng thế nào là đàn ông: “Người giàu không thể ngoại tình, người nghèo không thể ly hôn, kẻ mạnh không thể trốn tránh, sao thử thách bậc đại nhân” (giàu). Xa hoa không thể mê hoặc, nghèo khó không thể lay chuyển, quyền lực không thể khuất phục, đó gọi là đại nhân.
Con người trong tư tưởng Nho giáo là như vậy, nhưng so với định nghĩa của Trần Nhân Tông, chúng ta thấy nội dung còn hạn hẹp và nhỏ mọn, bởi vì “thờ vua đúng lẽ, kính thờ cha”, người như vậy chắc chắn không thể nào bị ảnh hưởng bởi của cải được. , nghèo đói hay quyền lực? Nội hàm phạm trù con người trong tư tưởng Trần Nhân Tông nhờ đó dường như rộng hơn và phong phú hơn rất nhiều.
Đây là một ví dụ điển hình khác về việc tổ tiên chúng ta có thể đã sử dụng một số từ tiếng Trung mà khi đọc to thường tạo ấn tượng về Nho giáo. Nhưng khi đi sâu phân tích, chúng ta thấy những từ này lại có nội dung hoàn toàn khác. Trước đây, chúng tôi đã thử phân tích hệ tư tưởng nhân từ của Nguyễn Trãi mà người ta thường gán cho Nho giáo và đi đến những kết luận hoàn toàn khác nhau.
Từ đó, mẫu hình lý tưởng của Phật giáo Việt Nam lần đầu tiên được quy định một nội dung rất cụ thể. Họ không chỉ “trong sạch tâm hồn, trau dồi giới luật” để trở thành “Bồ Tát trang nghiêm”, mà còn “đúng lạy chúa, cung kính thờ cha” để trở thành “người trung hiếu”. Có thể nói đây là sự tổng hợp về hình ảnh con người Việt Nam lý tưởng chứ không chỉ của Phật giáo.
Thực ra, những người làm nên sự nghiệp vẻ vang của dân tộc ta dưới thời Trần Nhân Tông có thể nói hầu hết đều là Phật tử, từ những nhà lãnh đạo tối cao ở trung ương như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải cho đến Nhân dân ở nước ta. thôn như Lê Công Mạnh và con cháu ông. Bởi vì họ là những vị Bồ Tát trang nghiêm nên họ duy trì kỷ luật cho bản thân và sống một cuộc sống lý tưởng. Nhưng đồng thời họ cũng là những người trung hiếu, hiếu thảo nên rất trung thành với Tổ quốc, hiếu thảo với cha mẹ, ông bà:
Vâng, ân sủng của Thiên Chúa, lòng thương xót của cha mẹ,
Thờ cúng các đạo sư.
Yêu Phật, kiêng đồ ngọt,
ăn chay.
(Đại hội lần thứ bảy)
để có thể đóng góp cho xã hội thông qua những công việc cụ thể như xây cầu, đóng thuyền với tấm lòng vui vẻ và nhân ái:
Xây cầu phà và tháp,
Hãy tu dưỡng bề ngoài và trang trọng vẻ bề ngoài của bạn.
Tìm niềm vui và buông bỏ, làm dịu đi lòng trắc ẩn
Kinh Nội Tâm Tại Tâm được đọc liên tục.
(Đại hội lần thứ tám)
Sau hai cuộc chiến tranh do địch áp đặt vào năm 1285 và 1288, phần lớn cơ sở hạ tầng của nước ta, đặc biệt là hệ thống cầu cảng, do yêu cầu chiến đấu của phía ta cũng như sự tàn phá không thương tiếc của địch, gần như bị phá hủy hoàn toàn. Chưa hết, trong chuyến công tác vào năm Chí Nguyên Nhâm Thìn (1292), Phó sứ Trần Phú đã nhìn thấy ở kinh đô Đại Việt những cây cầu Thăng Long bắc qua sông hùng vĩ. Ông viết: “Từ đại sứ quán, đi 60 dặm tới cầu An Hòa, rồi đi thêm một dặm nữa về phía bắc cầu Thanh Hóa. Trên cầu này có một ngôi nhà 19 phòng” như chúng ta đã thấy ở trên. Cả nước Đại Việt sau chiến tranh là một công trường xây dựng lớn. Người dân Đại Việt đã hăng say lao động xây dựng lại đất nước sau bao năm gian khổ, mất mát.
Chính hình ảnh và tinh thần của những con người lao động như vậy đã lọt vào mắt xanh của các vị lãnh đạo đất nước, để lại ấn tượng khó phai trong lòng họ. Vì vậy khi viết Sống trong thế giới, sống trong thế giới giàu có, Vua Trần Nhân Tông không quên thực hiện việc xây dựng cầu phà, tháp làm đẹp cho đất nước là một sứ mệnh, một nghĩa vụ mà người Phật tử Việt Nam có nghĩa vụ phải hoàn thành đối với Tổ quốc. Và Tổ quốc Việt Nam sau những năm tháng chiến tranh ấy đã trở thành đất Phật mà nhà thơ Huyền Quang Lý Tài Đạo đã miêu tả trong bài thơ Chùa Vĩnh Vân Yên:
Ôi chúa ơi!
Tây Trúc thế nào
Có bao nhiêu ở Nam Âu?
Ai đã đưa Non Linh Vuu tới đây?
Bề mặt Cánh Phi Lai lộ rõ đáy,
Nhập chưng cất Thánh địa thật bao la
Thoát khỏi trái tim trần tục rung động.
Đất nước Việt Nam lúc bấy giờ được nhìn nhận như vậy. Vì thế, nhân dân sẵn sàng hy sinh, chiến đấu để bảo vệ, đồng thời cũng sẵn sàng hăng say xây dựng để tạo nên một vùng đất Phật cho mình và con cháu. Phật tử Việt Nam thời đó tuy coi việc xây dựng chùa là “lợi dụng máu mỡ của nhân dân” nhưng họ cũng không cực đoan đến mức phủ nhận việc xây dựng chùa, hay phản đối việc làm đó. chức vụ. Có lẽ trong suy nghĩ của giới lãnh đạo Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ, chùa vẫn được xem là nơi củng cố nền móng của đất nước.
(Trích Toàn tập của Trần Nhân Tông, tiêu đề của giác ngộ)
Ý kiến bạn đọc (0)